Nguyễn Diệu Cúc, Nguyễn Thị Nhàn
Thực trạng quản lí hoạt động trải nghiệm cho học sinh
các trường tiểu học huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội
theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018
Nguyễn Diệu Cúc*1, Nguyễn Thị Nhàn2
* Tác giả liên hệ
1 Email: nguyendieucuc@gmail.com
Học viện Quản lí giáo dục
31 Phan Đình Giót, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
2 Email: nhan76nt@gmail.com
Trường Tiểu học An Thượng B
An Thượng, Hoài Đức, Hà Nội, Việt Nam
1. Đặt vấn đề
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 quy định
Hoạt động trải nghiệm ở cấp Tiểu học là hoạt động giáo
dục bắt buộc được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12. Hoạt
động trải nghiệm giúp hình thành và phát triển cho học
sinh các phẩm chất chủ yếu (yêu nước, nhân ái, chăm
chỉ, trung thực, trách nhiệm), năng lực chung (năng lực
tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo) và một số năng lực thành
phần đặc thù của hoạt động này như: năng lực thiết
kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề
nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong
cuộc sống và các kĩ năng sống khác... [1].
Trong những năm gần đây, số lượng đề tài nghiên
cứu liên quan tới chủ đề quản lí hoạt động trải nghiệm
đã gia tăng đáng kể [2], [3], [4]. Tuy nhiên, do hoạt
động trải nghiệm và quản lí hoạt động trải nghiệm vẫn
là một vấn đề lí luận và thực tiễn mới trong Chương
trình Giáo dục phổ thông 2018 nên vẫn cần tiếp tục
được nghiên cứu trong các bối cảnh địa phương, trường
học khác nhau để có hiểu biết đầy đủ về vấn đề, từ đó
đưa ra các biện pháp quản lí hiệu quả, phù hợp, khả
thi. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm giải
quyết câu hỏi: “Công tác quản lí hoạt động trải nghiệm
của cán bộ quản lí các trường tiểu học ở huyện Hoài
Đức, Thành phố Hà Nội theo Chương trình Giáo dục
phổ thông 2018 có những ưu điểm và hạn chế gì?”. Bài
viết góp phần giải quyết khoảng trống nghiên cứu về
thực trạng quản lí hoạt động trải nghiệm cho học sinh
tiểu học ở khu vực ngoại thành các đô thị lớn. Kết quả
nghiên cứu có thể là nguồn tham khảo hữu ích cho cán
bộ quản lí các trường tiểu học trong tổ chức và quản lí
hoạt động trải nghiệm cho học sinh theo Chương trình
Giáo dục phổ thông 2018.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí luận của quản lí hoạt động trải nghiệm cho học
sinh các trường tiểu học theo Chương trình Giáo dục phổ
thông 2018
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Hoạt động trải nghiệm: Là hoạt động giáo dục do nhà
giáo dục định hướng, thiết kế và hướng dẫn thực hiện,
tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm các
cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có
và huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn
học để thực hiện những nhiệm vụ được giao hoặc giải
quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường,
gia đình, xã hội phù hợp với lứa tuổi; thông qua đó,
chuyển hoá những kinh nghiệm đã trải qua thành tri
thức mới, hiểu biết mới, kĩ năng mới góp phần phát
huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc
sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai” [1].
Quản lí hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường
tiểu học: Là quá trình tác động có định hướng, có chủ
TÓM TẮT: Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, hoạt động trải
nghiệm ở cấp Tiểu học trở thành một hoạt động giáo dục bắt buộc. Quy
định này đặt ra những yêu cầu mới cho công tác tổ chức và quản lí hoạt
động trải nghiệm trong các trường tiểu học. Bài viết nghiên cứu, phân tích
thực trạng quản lí hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong các trường tiểu
học trên địa bàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội nhằm chỉ ra những
ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lí của hiệu trưởng. Nghiên cứu
sử dụng tiếp cận hỗn hợp và thiết kế phương pháp hỗn hợp song song hội
tụ, trong đó sử dụng và phân tích dữ liệu văn bản của bốn trường tiểu học,
khảo sát bằng phiếu hỏi với 285 giáo viên và phỏng vấn sâu 13 cán bộ
quản lí, giáo viên các trường tiểu học. Kết quả nghiên cứu được trình bày
trên bốn khía cạnh chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
TỪ KHÓA: Quản lí giáo dục, quản lí hoạt động trải nghiệm, trường tiểu học, Chương trình
Giáo dục phổ thông 2018.
Nhận bài 10/4/2023 Nhận bài đã chỉnh sửa 07/6/2023 Duyệt đăng 15/8/2023.
DOI: https://doi.org/10.15625/2615-8957/12310812
70 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
Nguyễn Diệu Cúc, Nguyễn Thị Nhàn
đích của cán bộ quản lí nhà trường cụ thể là hiệu trưởng
đến tập thể giáo viên, nhân viên, học sinh và các lực
lượng giáo dục khác thông qua bốn chức năng kế hoạch
hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động trải nghiệm
nhằm đạt được mục tiêu giáo dục học sinh nói riêng và
mục tiêu chất lượng giáo dục của nhà trường tiểu học
nói chung [5].
2.1.2. Quản lí hoạt động trải nghiệm cho học sinh ở trường tiểu
học theo yêu cầu của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018
Chức năng kế hoạch hoạt động trải nghiệm là quá
trình xác định mục tiêu hoạt động trải nghiệm, lựa chọn
việc cần làm, sắp xếp theo tiến độ thời gian phù hợp và
quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện hoạt
động trải nghiệm cho học sinh nhằm đạt được mục tiêu
đề ra [6].
Chức năng tổ chức các hoạt động trải nghiệm là một
quá trình tiếp nhận, phân phối và sắp xếp nguồn nhân
lực trong đơn vị cũng như các nguồn lực khác theo
những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện tốt
nhất mục tiêu mà các hoạt động trải nghiệm đã đề ra,
đưa tổ chức hoạt động trải nghiệm phát triển [6].
Chức năng chỉ đạo hoạt động trải nghiệm là quá trình
hiệu trưởng tác động trực tiếp, gây ảnh hưởng tới hành
vi, thái độ của mỗi cán bộ giáo viên, nhân viên trong
nhà trường, các tổ chức cá nhân ngoài nhà trường nhằm
làm cho mọi người thực hiện công việc một cách tích
cực, đi đúng hướng, đạt mục tiêu với chất lượng và hiệu
quả cao [6].
Chức năng kiểm tra hoạt động trải nghiệm là quá
trình giúp nhà quản lí phát hiện ra những sai sót và điều
chỉnh hoạt động trải nghiệm; thông qua kiểm tra các
hoạt động trải nghiệm để thực hiện tốt hơn, giảm bớt sai
sót có thể nảy sinh [6].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng tiếp cận nghiên cứu hỗn hợp
(mixed research approach) với thiết kế phương pháp
hỗn hợp song song hội tụ (convergent parallel mixed
method design) [3]. Theo đó, nhóm tác giả tiến hành
thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, định tính và định
lượng cùng lúc, sau đó so sánh kết quả từ các nguồn dữ
liệu để rút ra các chủ đề, kết quả nghiên cứu. Nhóm tác
giả đã thu thập và phân tích tổng số 19 tài liệu từ trang
web của bốn trường tiểu học huyện Hoài Đức. Các tài
liệu bao gồm: Các loại kế hoạch (kế hoạch giáo dục nhà
trường, kế hoạch tổ chức hoạt động trải nghiệm), báo
cáo tổng kết năm học; quy chế, quy định tổ chức hoạt
động trải nghiệm liên quan đến hoạt động dạy và học.
Tên trường được giữ khuyết danh để đảm bảo đạo đức
nghiên cứu.
Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi
qua Google Form đối với 285 giáo viên thuộc 25 trường
tiểu học trong toàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà
Nội. Số lượng giáo viên tham gia khảo sát được tính
theo công thức tính mẫu khi biết tổng thể và số lượng
giáo viên của từng trường được tính theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Thời gian tiến hành
khảo sát từ tháng 01 năm 2022 đến tháng 5 năm 2022.
Dữ liệu khảo sát được rà soát, kiểm tra tính hợp lệ và
xử lí thống kê mô tả. Với những câu hỏi sử dụng thang
đo Likert, nhóm tác giả đánh giá điểm trung bình dựa
theo giá trị khoảng cách như sau: 1.00 - 1.80: Rất không
đồng ý; 1.81 - 2.60: Không đồng ý; 2.61 - 3.40: Trung
lập; 3.41 - 4.20: Đồng ý; 4.21 - 5.00: Rất đồng ý.
Nhóm tác giả thực hiện phương pháp phỏng vấn sâu
nhằm tìm hiểu sâu về quan điểm, suy nghĩ của các bên
liên quan. Đối tượng phỏng vấn gồm 03 cán bộ làm
việc tại Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hoài Đức,
10 cán bộ quản lí, giáo viên đang công tác và giảng dạy
tại các trường tiểu học trên địa bàn huyện Hoài Đức. Dữ
liệu phỏng vấn được gỡ băng, mã hoá dữ liệu và tổng
hợp thành các chủ đề, kết quả nghiên cứu tương ứng với
khung lí thuyết.
2.3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2.3.1. Thực trạng kế hoạch hóa hoạt động trải nghiệm cho học
sinh trường tiểu học
Phân tích kết quả ở Bảng 1 cho thấy:
Kết quả nội dung “Phân tích bối cảnh và xác định mục
tiêu hoạt động trải nghiệm” cho thấy những điểm chưa
thống nhất cần phải thảo luận thêm. Theo đó: “Mục tiêu
của kế hoạch được xác định có tính khả thi” (điểm trung
bình 3.41) cho kết quả tốt song “Kế hoạch được xây
dựng phù hợp với bối cảnh và điều kiện thực tiễn của
nhà trường” (điểm trung bình 3.21) và “Kế hoạch hoạt
động trải nghiệm được xây dựng phù hợp với nhu cầu
và đặc điểm của học sinh nhà trường” (điểm trung bình
3.26) lại có kết quả ở mức trung bình. Kết quả này có
thể giải thích được từ dữ liệu phỏng vấn: “Trong thực
tế đội ngũ cán bộ quản lí nhà trường còn lúng túng vừa
triển khai nội dung Chương trình Giáo dục phổ thông
2018 cho khối 1, 2 và chuẩn bị đội ngũ, điều kiện cơ sở
vật chất cho khối 3, đồng thời đôn đốc đội ngũ tham
gia bồi dưỡng chức danh theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Ngay đầu năm học, hiệu trưởng có
triển khai xây dựng kế hoạch, tuy nhiên vẫn chưa làm
tốt do tác động của các yếu tố khách quan nhất là dịch
COVID-19 diễn biến phức tạp” (Cán bộ quản lí 02).
Về nội dung “Xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu”:
Dữ liệu khảo sát cho thấy yếu tố “Kế hoạch có tính
linh hoạt và mở” (điểm trung bình 3.39) đạt mức trung
bình cao, trong khi “Quá trình lập kế hoạch có sự tham
gia của nhiều bên liên quan” (điểm trung bình 3.25)
chưa tốt bằng. Dữ liệu phỏng vấn cho thấy kế hoạch
của các nhà trường chủ yếu là do cán bộ quản lí, các
Tập 19, Số 08, Năm 2023 71
Nguyễn Diệu Cúc, Nguyễn Thị Nhàn
tổ trưởng chuyên môn, Tổng phụ trách Đội, giáo viên
chủ nhiệm xây dựng trong khi các lực lượng khác như
học sinh, cha mẹ học sinh, cộng đồng địa phương rất
ít hoặc không được tham gia lập kế hoạch. Ví dụ: Khi
xây dựng kế hoạch tìm hiểu một xưởng sản xuất trên
địa bàn trường, giáo viên xây dựng kế hoạch, họp tổ
chuyên môn thống nhất kế hoạch, chuyển kế hoạch lên
cán bộ quản lí duyệt cho triển khai thực hiện. Trong quá
trình xây dựng kế hoạch, không có sự bàn bạc với cha
mẹ học sinh, lãnh đạo xưởng sản xuất mà họ chỉ được
mời đến họp hoặc gọi điện thoại nhờ hỗ trợ, giúp đỡ
thực hiện sau khi kế hoạch đã được ban hành.
Về “Triển khai thực hiện kế hoạch”: Nội dung “Kế
hoạch được phổ biến đến đông đảo các bên liên quan”
được đánh giá tương đối tốt (điểm trung bình 3.56). Kết
quả này cũng phù hợp với kết quả dữ liệu thứ cấp. Ví
dụ: Kế hoạch giáo dục được công khai trên trang web
được công khai tại văn phòng trường, được thông qua
hội nghị cán bộ viên chức và người lao động đầu năm
học… Nội dung “Kế hoạch được triển khai đúng, ít
thay đổi” chỉ ở mức trung bình (điểm trung bình 3.31).
Dữ liệu phỏng vấn cho thấy, do khi xây dựng kế hoạch
không có sự bàn bạc với các bên nên khi triển khai thực
hiện kế hoạch nhiều khi phải thay đổi, không thực hiện
được đúng theo kế hoạch do nhiều yếu tố như: Cha mẹ
học sinh bận, cha mẹ học sinh không đồng ý cho con
đi trải nghiệm tại địa điểm đó, xưởng sản xuất từ chối
vì không đủ điều kiện đón học sinh đến trải nghiệm…
Kết quả khảo sát nội dung “Kiểm tra đánh giá kết quả
thực hiện kế hoạch” cho thấy những điểm chưa thống
nhất cần phải thảo luận thêm. Nội dung “Cán bộ quản lí
thường xuyên theo dõi, kiểm tra đánh giá việc thực hiện
kế hoạch” (điểm trung bình 3.68) tương đối tốt nhưng
nội dung “Kế hoạch được điều chỉnh phù hợp với
những thay đổi của thực tiễn” (điểm trung bình 3.32)
chỉ đạt mức trung bình. Kết quả này là phù hợp với dữ
liệu phỏng vấn: “Quá trình tổ chức để tổng kết, rút kinh
nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động trải
nghiệm cũng còn chưa được thực hiện tốt, công tác này
dường như đang bị quên lãng và thiếu sự chú trọng”
(Cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo 01). Nội dung “Kế
hoạch được điều chỉnh phù hợp với những thay đổi của
thực tiễn” đạt kết quả chưa cao (điểm trung bình 3.32).
Việc tổng kết, rút kinh nghiệm, cải tiến, điều chỉnh
được tổ chức chung vào tổng kết cuối kì học hoặc cuối
năm học chứ không thực hiện riêng hoặc ngay sau mỗi
sự kiện nên chưa thực sự hiệu quả.
2.3.2. Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh
trường tiểu học
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy:
Nội dung “Xây dựng cơ cấu tổ chức triển khai hoạt
động trải nghiệm” cho kết quả chỉ ở mức trung bình.
Về nội dung “Cơ cấu tổ chức của nhà trường phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận/cá nhân trong
tổ chức hoạt động trải nghiệm” (điểm trung bình 3.21),
qua phân tích kết quả tài liệu thứ cấp cho thấy, việc tổ
chức triển khai hoạt động trải nghiệm cho học sinh đôi
khi còn chồng chéo, chưa thực hiện xong hoạt động này
đã thực hiện hoạt động khác. Giáo viên phải làm quá
nhiều việc trong một thời gian ngắn đã gây quá tải, áp
lực. Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động trải nghiệm theo chủ
điểm 20/11, tại Trường Tiểu học C. trong khoảng thời
gian từ ngày 15 tháng 10 năm 2021 đến ngày 15 tháng
11 năm 2021 đã có ba hoạt động lớn là: Tổ chức thao
giảng cho giáo viên, Tổ chức hoạt động “Tìm kiếm tài
năng nhí”, và “Trang trí lớp học thân thiện”. Nội dung
“Nhà trường có xu hướng trao quyền nhiều hơn cho tổ
chuyên môn trong tổ chức hoạt động trải nghiệm” có
kết quả khảo sát chưa tốt (3.02). Kết quả phỏng vấn cho
Bảng 1: Đánh giá của cán bộ quản lí, giáo viên về kế hoạch hóa hoạt động trải nghiệm
STT Nội dung Điểm trung bình Thứ bậc
1 Phân tích bối cảnh và xác định mục tiêu
1.1 Kế hoạch được xây dựng phù hợp với bối cảnh và điều kiện thực tiễn của nhà trường 3.21 9
1.2 Kế hoạch hoạt động trải nghiệm được xây dựng phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của học sinh nhà trường 3.26 7
1.3 Mục tiêu của kế hoạch được xác định có tính khả thi 3.41 3
2 Xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu
2.1 Quá trình lập kế hoạch có sự tham gia của các bên liên quan 3.25 8
2.2 Kế hoạch có tính linh hoạt và mở 3.39 4
3 Triển khai thực hiện kế hoạch
3.1 Kế hoạch được phổ biến tới đông đảo các bên liên quan 3.56 2
3.2 Kế hoạch được triển khai đúng, ít phải thay đổi 3.31 6
4 Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch
4.1 Cán bộ quản lí thường xuyên theo dõi, kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch 3.68 1
4.2 Kế hoạch được điều chỉnh phù hợp với những thay đổi của thực tiễn 3.32 5
72 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
thấy, đa số tổ trưởng chuyên môn thường xin ý kiến chỉ
đạo của cán bộ quản lí trước khi xây dựng kế hoạch và
không có nhiều quyền quyết định, kể cả trong các nội
dung chuyên môn. Nguyên nhân là do cán bộ quản lí
chưa tin tưởng và không dám để giáo viên, tổ trưởng
chuyên môn có thể tự quyết định, tự thay đổi kế hoạch,
tổ chức hoạt động trải nghiệm vì đây là hoạt động còn
mới và phức tạp.
Nội dung “Xây dựng và phát triển đội ngũ” được
khảo sát cho kết quả tương đối tốt, trong đó nội dung
“Nhà trường khuyến khích giáo viên học hỏi, giúp đỡ
lẫn nhau để tổ chức hoạt động trải nghiệm” (điểm trung
bình 3.61) cho kết quả tốt nhất. Kết quả này cũng tương
đồng với các dữ liệu thứ cấp. Báo cáo tổng kết năm
học của các trường cho thấy, việc tổ chức các chuyên
đề chuyên môn để giáo viên học hỏi kinh nghiệm, giúp
đỡ lẫn nhau được các trường làm rất tốt. Tuy nhiên,
việc “Nhà trường khuyến khích giáo viên phát huy tính
chủ động sáng tạo trong tổ chức hoạt động trải nghiệm”
(điểm trung bình 3.38) và “Giáo viên được nhà trường
quan tâm bồi dưỡng, phát triển năng lực tổ chức” (điểm
trung bình 3.42) có kết quả khảo sát trung bình hoặc
tốt ở mức thấp. Cũng như kết quả khảo sát ở nội dung
trên, mức độ trao quyền cho tổ trưởng chuyên môn và
giáo viên trong tổ chức hoạt động trải nghiệm còn khá
thấp nên giáo viên ít được khuyến khích sáng tạo, phát
huy sáng kiến riêng. Việc bồi dưỡng giáo viên mới chỉ
được tập trung vào dịp hè và do cấp trên tổ chức, còn
trong năm học giáo viên chủ yếu tự học hỏi nhau cách
tổ chức hoạt động trải nghiệm. Nhà trường cũng ít triển
khai tập huấn thực hiện hoạt động trải nghiệm vì đây là
hoạt động mới, vừa làm vừa theo dõi, chủ yếu dựa vào
các hướng dẫn, tập huấn của cấp trên.
Nội dung “Xây dựng cơ chế và mối quan hệ phối
hợp” cho kết quả khảo sát còn có những điểm chưa
thống nhất cần phải thảo luận thêm. “Nhà trường huy
động tốt các nguồn lực bên ngoài để tổ chức hoạt động
trải nghiệm” (điểm trung bình 3.56) và “Hiệu trưởng
thể hiện tốt vai trò chỉ đạo, điều phối các mối quan hệ
phối hợp” (điểm trung bình 3.54) cho kết quả tương đối
tốt. Dữ liệu thứ cấp cho thấy, các nhà trường đã huy
động rộng rãi các nguồn lực bên ngoài (gia đình học
sinh, tổ chức đoàn thể, các công ti doanh nghiệp…) để
tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh. Ví dụ, trên
trang web của trường tiểu học A có video tổ chức trung
thu trực tuyến cho học sinh. Dịch COVID-19 nhưng
nhà trường đã phối hợp với các công ti sản xuất bánh
kẹo của địa phương và Hội Cha mẹ học sinh phát quà
đến tay tất cả học sinh. Tuy nhiên, sự phối hợp mới chỉ
dựa trên mối quan hệ cá nhân và giúp đỡ tự nguyện,
chưa phân định rõ trách nhiệm của từng lực lượng - thể
hiện qua kết quả khảo sát nội dung “Nhà trường có cơ
chế và mối quan hệ phối hợp rõ ràng trong tổ chức hoạt
động trải nghiệm” chỉ ở mức trung bình (điểm trung
bình 3.11).
Nội dung “Tổ chức lao động khoa học” cho thấy
những điểm chưa thống nhất cần phải thảo luận thêm.
Việc “Hiệu trưởng triển khai các hoạt động hợp lí”
(điểm trung bình 3.48) và “Hiệu trưởng triển khai các
hoạt động trải nghiệm đạt kết quả tốt” (điểm trung bình
3.37) cho kết quả từ trung bình cao đến tốt thì việc “Giáo
viên cảm thấy bị quá tải vì các công việc tổ chức hoạt
Bảng 2: Đánh giá của cán bộ quản lí, giáo viên về tổ chức hoạt động trải nghiệm
STT Nội dung Điểm
trung bình
Thứ
bậc
1 Xây dựng cơ cấu tổ chức triển khai hoạt động
1.1 Cơ cấu tổ chức của nhà trường phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận/cá nhân trong tổ chức hoạt
động trải nghiệm 3.21 8
1.2 Nhà trường có xu hướng trao quyền nhiều hơn cho tổ chuyên môn trong tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.02 10
2 Xây dựng và phát triển đội ngũ tổ chức hoạt động trải nghiệm
2.1 Giáo viên được nhà trường quan tâm bồi dưỡng, phát triển năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.42 5
2.2 Nhà trường khuyến khích giáo viên học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau để tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.61 1
2.3 Nhà trường khuyến khích giáo viên phát huy tính chủ động sáng tạo trong tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.38 6
3 Xây dựng cơ chế và mối quan hệ phối hợp
3.1 Nhà trường có cơ chế và mối quan hệ phối hợp rõ ràng trong tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.11 9
3.2 Hiệu trưởng thể hiện tốt vai trò chỉ đạo, điều phối các mối quan hệ phối hợp 3.54 3
3.3 Nhà trường huy động tốt các nguồn lực bên ngoài để tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.56 2
4 Tổ chức lao động khoa học
4.1 Hiệu trưởng triển khai các hoạt động một cáhc hợp lí 3.48 4
4.2 Hiệu trưởng triển khai hoạt động trải nghiệm đạt kết quả tốt 3.37 7
4.3 Giáo viên cảm thấy bị quá tải vì các công việc tổ chức hoạt động trải nghiệm 2.32 11
Nguyễn Diệu Cúc, Nguyễn Thị Nhàn
Tập 19, Số 08, Năm 2023 73
động trải nghiệm” (điểm trung bình 2.32) cho kết quả
kém nhất. Kết quả này được giải thích một phần qua dữ
liệu phỏng vấn. Cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo 02
cho biết: “Do tác động khách quan tình hình dịch bệnh
COVID-19, cộng thêm năng lực tổ chức hoạt động trải
nghiệm của đội ngũ giáo viên còn hạn chế, dẫn đến việc
tổ chức chưa được hiệu quả. Để tổ chức được một hoạt
động trải nghiệm khi học sinh đi học trực tiếp đã vất vả
vì đây là hoạt động mới thì tổ chức hình thức trực tuyến
lại càng vất vả hơn. Giáo viên phải tổ chức hoạt động
làm sao hấp dẫn, thu hút được học sinh chỉ qua chiếc
điện thoại thông minh hoặc qua máy tính. Điều khiển
các con tham gia vào hoạt động khi không có cô ở bên
cạnh. Điều này quả là áp lực và mệt mỏi”.
2.3.3. Thực trạng chỉ đạo hoạt động trải nghiệm cho học sinh
ở trường tiểu học
Kết quả Bảng 3 cho thấy:
Kết quả khảo sát nội dung “Thực hiện quyền chỉ huy,
giao việc và hướng dẫn triển khai các nhiệm vụ hoạt
động trải nghiệm” cho thấy nhiều điểm chưa thống
nhất cần thảo luận thêm. Các nội dung như: “Hiệu
trưởng giao việc cho cấp dưới phù hợp với năng lực,
sở trường của họ” (điểm trung bình 3.71), “Giáo viên
được hướng dẫn, trợ giúp trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ” (điểm trung bình 3.67). Dữ liệu phỏng vấn
cho thấy, các cán bộ quản lí rất quan tâm hỗ trợ, giúp
đỡ giáo viên tổ chức tốt hoạt động trải nghiệm vì các
hoạt động này không chỉ là một hoạt động giáo dục
đơn thuần mà còn liên quan nhiều tới sức khoẻ, học
tập, thậm chí tính mạng của học sinh, danh tiếng, uy
tín của nhà trường. Tuy nhiên, cách thức giao việc của
Hiệu trưởng còn chưa rõ ràng (điểm trung bình 3.25).
Cán bộ quản lí 04 cho biết: “Hiện nay, công tác chỉ
đạo phần lớn được thực hiện hình thức trực tiếp bằng
lời nói, chỉ đạo thông qua hệ thống các văn bản, quy
định; chỉ thông qua đội ngũ giáo viên cốt cán trong
nhà trường...”. Nội dung “Nhà trường có tổ chức các
hoạt động tập huấn để triển khai hoạt động trải nghiệm”
(điểm trung bình 3.62) có kết quả tương đối tốt nhưng
thực chất các hoạt động tập huấn này không phải do nhà
trường chủ động đề xuất mà là do chỉ đạo, hướng dẫn
từ cấp trên xuống.
Kết quả khảo sát nội dung: “Đôn đốc, động viên,
kích thích nhằm tạo động lực cho mọi thành viên làm
việc” cho thấy tồn tại, bất cập trong công tác quản lí
đội ngũ trong các trường tiểu học. Nội dung “Hiệu
trưởng thường xuyên đôn đốc, khích lệ giáo viên hoàn
thành nhiệm vụ” (điểm trung bình 3.88) cho kết quả
tương đối tốt nhưng nội dung “Nhà trường có những
cơ chế, chính sách giúp tăng động lực làm việc của
giáo viên” (điểm trung bình 3.41) chỉ ở đạt tốt ở mức
tối thiểu. Kết quả phỏng vấn cũng cho thấy, việc tạo
động lực, động viên, khích lệ của các nhà trường chưa
được thường xuyên, sự công nhận những cố gắng,
đóng góp của đội ngũ giáo viên còn chưa kịp thời;
cách thức tạo động lực làm việc cho giáo viên chưa
Bảng 3: Đánh giá của cán bộ quản lí về chỉ đạo hoạt động trải nghiệm
STT Nội dung Điểm
trung bình
Thứ
bậc
1 Thực hiện quyền chỉ huy, giao việc và hướng dẫn triển khai các nhiệm vụ hoạt động trải nghiệm
1.1 Hiệu trưởng giao việc cho cấp dưới rõ ràng 3.25 13
1.2 Hiệu trưởng giao việc cho cấp dưới phù hợp với năng lực, sở trường của họ 3.71 4
1.3 Giáo viên được hướng dẫn, trợ giúp trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ 3.67 6
1.4 Nhà trường có tổ chức các hoạt động tập huấn để triển khai hoạt động trải nghiệm 3.62 8
2 Đôn đốc, động viên, kích thích nhằm tạo động lực cho mọi thành viên làm việc
2.1 Hiệu trưởng thường xuyên đôn đốc, khích lệ giáo viên hoàn thành nhiệm vụ 3.88 3
2.2 Nhà trường đánh giá kết quả làm việc của giáo viên một cách công bằng 3.54 10
2.3 Nhà trường có những cơ chế, chính sách giúp tăng động lực làm việc của giáo viên 3.41 12
2.4 Nhà trường có chế độ khen thưởng, kỉ luật hợp lí 3.60 9
3 Giám sát và sửa chữa nhằm đưa các hoạt động trải nghiệm đúng hướng, đảm bảo chất lượng
3.1 Hiệu trưởng sẵn sàng giúp cấp dưới khắc phục những hạn chế, khuyết điểm 3.47 11
3.2 Hiệu trưởng có khả năng giải quyết những xung đột trong quá trình tổ chức hoạt động trải nghiệm 3.69 5
3.3 Hiệu trưởng luôn duy trì phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận 3.65 7
4 Xây dựng môi trường thúc đẩy các hoạt động phát triển
4.1 Nhà trường có môi trường văn hoá tạo điều kiện cho giáo viên được phát huy năng lực và khả năng sáng tạo 4.02 1
4.2 Nhà trường có môi trường văn hoá tích cực, lành mạnh 3.97 2
Nguyễn Diệu Cúc, Nguyễn Thị Nhàn
74 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
có sự đổi mới, chỉ khen thưởng bằng tinh thần; khen
thưởng và kỉ luật không rõ ràng.
Các hoạt động của nội dung “Giám sát và sửa chữa
nhằm đưa các hoạt động trải nghiệm đúng hướng, đảm
bảo chất lượng” có kết quả tương đối cao và trùng khớp
với dữ liệu định tính. Kết quả phỏng vấn giáo viên 06
cho biết: “Hiệu trưởng trường tôi thường chỉ ra được
cho cấp dưới những hạn chế khuyết điểm nhưng để giúp
họ khắc phục được thì khó vì nó liên quan đến năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ của từng người. Tuy nhiên,
trong quá trình tổ chức các hoạt động trải nghiệm nếu
có vấn đề bất thường, hiệu trưởng sẽ đứng ra giải quyết
hoặc giao cho cấp phó, trưởng các đoàn thể can thiệp
giải quyết”.
Nội dung “Xây dựng môi trường thúc đẩy các hoạt
động phát triển” cho kết quả cao nhất trong các nội
dung của chức năng tổ chức. Nội dung “Nhà trường có
môi trường văn hoá tạo điều kiện cho giáo viên được
phát huy năng lực và khả năng sáng tạo” (điểm trung
bình 4.02) được đánh giá tốt nhất, còn nội dung “Nhà
trường có môi trường văn hoá tích cực, lành mạnh”
(điểm trung bình 3.97) được đánh giá thứ hai. Hoài Đức
là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời. Truyền
thống đó được các trường tiểu học gìn giữ và phát huy
rất tốt. Qua dữ liệu định tính cho thấy, rất nhiều trường
tiểu học trong huyện Hoài Đức đang xây dựng đơn vị
thành “trường học hạnh phúc”. Đây là điều kiện thuận
lợi để hiệu trưởng tổ chức tốt các hoạt động trải nghiệm
trong nhà trường.
2.3.4. Thực trạng kiểm tra hoạt động trải nghiệm cho học sinh
ở trường tiểu học
Kết quả ở Bảng 4 cho thấy:
Nội dung “Xác định tiêu chuẩn đánh giá hoạt động
trải nghiệm” có kết quả khảo sát ở mức tương đối tốt.
Đa số các nhà trường đã xây dựng các tiêu chuẩn đánh
giá kết quả hoạt động trải nghiệm. Tuy nhiên, do hoạt
động giáo dục này mới được triển khai trong các trường
tiểu học được hai năm nên trong một số tiêu chí, giáo
viên thấy khó tiến hành kiểm tra, còn mơ hồ và chưa cụ
thể. Dữ liệu phỏng vấn cán bộ quản lí 04 cũng khẳng
định kết quả này: “Công tác kiểm tra đánh giá hoạt
động trải nghiệm chưa thực sự bám sát vào thực tiễn
hoạt động tại nhà trường do các tiêu chí kiểm tra, đánh
giá xây dựng còn chung chung, mơ hồ. Chính điều này
làm cho công tác kiểm tra, đánh giá thiếu sự hiệu quả,
chưa phát hiện kịp thời những sai sót để chỉnh sửa hay
chưa phát huy được những điểm tốt trong hoạt động”.
Nội dung “Tiến hành kiểm tra, đo đạc, thu thập thông
tin về hoạt động trải nghiệm” cho kết quả tương đối tốt.
Các hoạt động kiểm tra đều bám sát tiến độ, kế hoạch,
tiêu chuẩn đánh giá; được thực hiện nghiêm túc, chính
xác. Tình trạng kiểm tra, đánh giá mang tính hình thức,
làm chiếu lệ cho có thông tin để viết báo cáo mặc dù
vẫn có nhưng không phổ biến (điểm trung bình 3.01).
Bên cạnh đó, nội dung “So sánh sự phù hợp của việc
thực hiện hoạt động trải nghiệm với chuẩn” cho thấy
đây là khâu còn hạn chế của công tác kiểm tra. “Sự
so sánh còn chưa được thường xuyên, mang tính hình
thức” (điểm trung bình 4.02) và “Luôn có sự so sánh
Bảng 4: Đánh giá của cán bộ quản lí, giáo viên về kiểm tra hoạt động trải nghiệm
STT Nội dung Điểm trung bình Thứ bậc
1 Xác định tiêu chuẩn đánh giá hoạt động trải nghiệm
1.1 Hoạt động kiểm tra đều dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá được xác định từ trước 3.77 5
1.2 Các tiêu chuẩn xây dựng cụ thể, chi tiết 3.51 8
1.3 Các tiêu chuẩn đánh giá bám sát và phù hợp với thực tiễn tại nhà trường 3.56 6
2 Tiến hành kiểm tra: đo đạc, thu thập thông tin về hoạt động trải nghiệm
2.1 Hoạt động kiểm tra được tiến hành đúng kế hoạch đã đề ra 3.89 4
2.2 Hoạt động kiểm tra được tiến hành nghiêm túc, chính xác 3.93 3
2.3 Hoạt động kiểm tra đôi khi còn mang tính hình thức 3.01 12
2.4 Bám sát tiêu chuẩn đã xây dựng để đánh giá 4.01 2
3 So sánh sự phù hợp của việc thực hiện hoạt động trải nghiệm với chuẩn
3.1 Luôn có sự so sánh thực tế và chuẩn 3.22 11
3.2 Sự so sánh còn chưa được thường xuyên, mang tính hình thức 4.02 1
4 Điều chỉnh, củng cố, duy trì kết quả hoạt động trải nghiệm đạt được
4.1 Sau mỗi hoạt động kiểm tra, nhà trường luôn rút ra bài học kinh nghiệm cho những lần hoạt động tiếp theo 3.34 10
4.2 Nhà trường có áp dụng những bài học kinh nghiệm cho những lần tổ chức hoạt động tiếp theo trong thực tế 3.41 9
4.3 Đề xuất các biện pháp phù hợp để thay đổi, cải tiến hoạt động 3.52 7
Nguyễn Diệu Cúc, Nguyễn Thị Nhàn
thực tế và chuẩn” còn chưa thường xuyên (điểm trung
bình 3.22).
Nội dung “Điều chỉnh, củng cố, duy trì kết quả
hoạt động trải nghiệm với chuẩn” cho kết quả khảo
sát ở mức trung bình. Sau mỗi hoạt động kiểm tra, nhà
trường chưa thường xuyên rút ra bài học kinh nghiệm
cho những lần hoạt động tiếp theo (điểm trung bình
3.34), cũng chưa thường xuyên áp dụng những bài học
kinh nghiệm cho những lần tổ chức hoạt động tiếp theo
trong thực tế” (điểm trung bình 3.41). Kết quả này là do
việc rút kinh nghiệm sau mỗi lần hoạt động trải nghiệm
thường chỉ được tiến hành vào cuối kì học hoặc cuối
năm học, không thực hiện ngay sau mỗi hoạt động.
3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong thời gian tới,
để nâng cao chất lượng quản lí hoạt động trải nghiệm,
các cán bộ quản lí trường tiểu học huyện Hoài Đức cần
quan tâm giải quyết một số vấn đề như: Đa dạng hóa
các nội dung và hình thức tổ chức các hoạt động trải
nghiệm cho học sinh; tập huấn và bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ giáo viên kĩ năng tổ chức các hoạt động trải
nghiệm cho học sinh theo Chương trình Giáo dục phổ
thông 2018; tuyên truyền sâu rộng đến chính quyền địa
phương, cha mẹ học sinh, cộng đồng dân cư hiểu rõ
về Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 và về hoạt
động trải nghiệm; xây dựng cơ chế phối hợp rõ ràng
giữa các lực lượng tổ chức và đánh giá hoạt động trải
nghiệm cho học sinh; sáng tạo, tận dụng các nguồn lực
bên trong và bên ngoài nhà trường để tổ chức các hoạt
động trải nghiệm cho học sinh; trao quyền chủ động
cho các tổ trưởng chuyên môn và giáo viên để họ phát
huy năng lực và khả năng sáng tạo tổ chức các hoạt
động trải nghiệm cho học sinh. Có quy chế thi đua khen
thưởng và kỉ luật rõ ràng, động viên giáo viên bằng cả
tinh thần và vật chất; tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm
sau khi tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (12/2018), Thông tư số
32/2018/TT về việc ban hành Chương trình Giáo dục
phổ thông Chương trình tổng thể, Hà Nội.
[2] Phạm Văn Chương, (2018), Quản lí hoạt động trải
nghiệm cho học sinh ở các trường phổ thông dân tộc
bán trú trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên.
[3] Phan Thị Hạnh - Phan Minh Tiến, (2021), Quản lí hoạt
động trải nghiệm cho học sinh ở các trường tiểu học
Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí
Khoa học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, số
4(60), tr.141-150.
[4] Đoàn Thị Thanh Nga, (2020), Quản lí hoạt động trải
nghiệm theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở các
trường tiểu học thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh,
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học
Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
[5] Nguyễn Thị Mỹ Lộc và cộng sự, (2012), Quản lí giáo
dục một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
[6] Nguyễn Thị Tuyết Hạnh - Lê Thị Mai Phương, (2015),
Giáo trình khoa học quản lí giáo dục, NXB Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
[7] Creswell, J. W, (2013), Qualitative inquiry and research
design (3rd ed.), Sage.